Tổng hợp các bài văn phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn phân tích hai khổ đầu bài thơ Tràng giang hay hơn.

(40+ mẫu) Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang (siêu hay)

Đề bài: Phân tích 2 khổ đầu bài thơ "Tràng giang" của Huy Cận.

Bài giảng: Tràng Giang - Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)

Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang - mẫu 1

   "Tràng giang" là bài thơ kiệt tác của Huy Cận rút trong tập thơ "Lửa thiêng" (1940). Bài thơ có một câu đề từ rất đậm đà: "Bâng khuâng trời rộng, nhớ sông dài". Tác giả đã có lần nói: "Tràng giang là một bài thơ tình và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn", "Tràng giang" tiêu biểu cho vẻ đẹp của hồn thơ Huy Cận trước cách mạng: hàm súc, cổ điển, giàu chất suy tưởng triết lí, thấm thìa một nỗi buồn nhân thế "sầu trăm ngả".

Quảng cáo

   Bài thơ dược viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, có 4 khổ thơ hợp thành một bộ tứ bình về tràng giang một chiều thu. Đây là khổ thơ thứ hai của "Tràng giang"

    "Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

    Đây tiếng làng xa vãn chợ chiều,

    Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

    Sông dài, trời rộng, bến cô liêu".

   Từ dòng sông, sóng gợn, con thuyền xuôi mái và cành củi khô bập bềnh trôi dạt trên sóng., ở khổ một, Huy Cận nổi đến cảnh tràng giang một buổi chiều mênh mông, vắng vẻ. Giọng thơ nhè nhẹ man mác buồn. Không gian nghệ thuật được mở rộng về đôi bờ và bầu trời. Những cồn cát thưa thớt nhấp nhô "lơ thơ" như nối tiếp mãi dài ra. Gió chiều nhè nhẹ thổi "đìu hiu" gợi buồn khôn xiết kể. Hai chữ "đìu hiu" gợi nhớ trong lòng người đọc một vần thơ cổ:

    "Non Kì quạnh quẽ trăng treo,

    Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò"

           (Chinh phụ ngâm)

   Làng xóm đôi bờ sông, trong buổi chiều tàn cũng rất vắng lặng. Một chút âm thanh nhỏ bé lao xao trong khoảng khắc tan chợ, văn chợ ở đây đây, ở từ một làng xa vẳng đến. Lấy động để tả tĩnh, câu thơ "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều" đã làm nỗi bật sự ngạc nhiên, chút bâng khuâng của người lữ khách về cái vắng vẻ, cái hoang vắng của đôi bờ tràng giang. Các nhà Thơ mới coi trọng tính nhạc trong thơ, vận dụng nghệ thuật phối âm, hòa thanh rất thần tình, tạo nên những vần thờ giàu âm điệu, nhạc điệu, đọc lên nghe rất thích. Hai câu đầu đoạn có điệp âm "lơ thơ" và "đìu hiu", có vần lưng "nhỏ — gió", có vần chân: "hiu - chiều". Câu thơ của Huy Cận làm ta liên tưởng đến câu thơ của Xuân Diệu:

    "Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,

    Lả lả cành hoang vắng trở chiều..."

           (Thơ duyên)

   Các điệp thanh: "Nhỏ nhỏ", "xiêu xiêu", "lả lả"; các vần thơ, như vần lưng "nhỏ" với "gió", vần chân "xiêu" với "chiều". Những vần thơ "tươi nhạc tươi vần" ấy đã trở thành thơ trong trí nhớ của hàng triệu con người yêu thích văn học.

   Trở lại đoạn thơ trong bài "Tràng giang" của Huy Cận, ta như được nhập hồn mình vào cõi vũ trụ mênh mông và bao la. Trời đã về chiều. Nắng từ trên cao chiếu rọi xuống làm hiện ra những khoảng sâu thẳm tẳm trên bầu trời, vẻ đẹp của bầu trời thu quê hương ta đã trở thanh vẻ đẹp của thi ca dân tộc: "Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao" (Thu vịnh); "Trời cao xanh ngắt - Ô kìa..." (Tiếng sáo Thiên Thai); "xanh biếc trời cao, bạc đất bằng" (Xuân Diệu). Thi sĩ Huy Cận lại nhận diện bầu trời không phải là cao mà là sâu, "sâu chót vót" :

    "Nắng xuống / trời lên sâu chót vót"

   Bầu trời và lòng sông "sóng gợn" là không gian hai chiều, rộng và cao, sâu. Trời cao thăm thẳm, rộng mênh mông in xuống, soi xuống lòng sông. Người ta thường nói "cao chót vót" và "sâu thăm thẳm", nhưng Huy Cận lại cảm nhận là "sâu chót vót" vừa để làm nổi bật hai vế tiểu đối: "nắng xuống" // "trời lên", vừa gây ấn tượng về cái bao la, mênh mông đến rợn ngợp của không gian vũ trụ vô tận, và cũng là nỗi buồn như vô tận trong lòng người. Khách li hương càng cảm thấy nhỏ bé, lẻ loi và cô đơn trước không gian vô hạn của vũ trụ. Dòng sông như dài thêm ra, bầu trời như rộng thêm ra, bến đò (hay bến lòng?) như cô liêu hơn, xa vắng quạnh hiu hơn. Lời đề từ nhà thơ đã viết: "Bâng khuâng trời rộng, nhớ sông dài", cảm hứng ấy đã được láy lại ở thơ số 8, mở ra một trường liên tưởng dầy ám ảnh về vũ trụ thì vô hạn vô cùng, còn kiếp người thì nhỏ bé, hữu hạn: "Sông dài, trời rộng, bến cô liêu".

   Cảnh sắc tràng giang được nói đến trong đoạn thơ là một không gian nghệ thuật đẹp mà buồn, vẻ đẹp của những dòng sông trên mọi miền đất nước hội tụ trong tâm hồn thi nhân, vẻ đẹp của tình yêu quê hương, tình yêu sông núi. Tình yêu đó mang nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước của Huy Cận, của thế hệ các nhà thơ thời tiền chiến. "Tràng giang" đã hợp lưu trong lòng người hơn 60 năm rồi. Đọc đoạn thơ trên, ta mới thấu hiểu nỗi lòng thi nhân trước Cách mạng: "Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm…"

Dàn ý Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang

Quảng cáo

Dàn ý phân tách 2 khổ thơ đầu bài Tràng Giang

Dàn ý - mẫu 1

I.Mở bài

  • Giới thiệu tác giả tác phẩm.
  • Giới thiệu 2 khổ thơ đầu.

II.Thân bài

1.Khổ 1

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi 1 cành khô lạc mấy giòng.”

a.Thiên nhiên

Mở ra hình ảnh dòng sông mênh mông sóng nước. 1 con thuyền bé nhỏ trôi xuôi trên dòng nước và 1 cành củi khô bập bềnh giữa sóng nước rộng lớn.
Bức tranh tự nhiên không xa lạ mang đậm màu sắc cổ đại đường thi với hình ảnh dòng sông, sóng nước, con thuyền.

b.Tâm cảnh con người

  • Từ láy sóng đôi “điệp điệp” và “song song” được đặt trong thế đăng đối trên dưới đã hòa nhập sóng nước vào sóng lòng. Lời thơ mở ra 1 ko gian mênh mông và nỗi buồn trong câu 1 tới câu 3 chuyển thành nỗi sầu theo những con sóng gối lên nhau vừa kết tụ vừa lan tỏa
    Nhịp 2–23 trầm buồn tượng như nhịp trôi của dòng sông cũng là nhịp trôi của dòng thời kì.
  • Cảm giác như dòng tràng giang đang lưu loát giữa đôi bờ 1 bên hết sức thời kì, 1 bên bất tận ko gian.
  • Hình ảnh “con thuyền xuôi mái” gợi cảm giác trôi nổi.
  • Cặp tiểu đối “thuyền về” – “nước lại” gợi cảm nhận về sự chia li. Con thuyền trôi trên mặt nước nhưng như đang chia bóng với dòng nước, khêu gợi nỗi buồn về thân phận nổi lênh vô định.
  • Phép đảo ngữ “củi 1 cành khô” gợi nỗi buồn khô héo. Chi tiết thơ đầy ám ảnh bởi nó là kết quả của công đoạn lao động và chọn lọc kỹ càng công phu của thi sĩ.

c.Tiểu kết

Sự đối lập giữa hình ảnh dòng sông rộng lớn bao la với những tạo vật bé nhỏ hữu hạn gợi ra nỗi buồn về sự chìm nổi phiêu bạt.

Hình ảnh Tràng Giang ko chỉ là dòng sông nhưng còn là dòng đời và con thuyền của cuộc đời dạt trôi trên mặt nước ko chỉ là những hình ảnh thực nhưng còn là biểu trưng cho kiếp sống lênh đênh lạc loài trên dòng đời lưu loát.

2.Khổ 2

“Lơ phơ cồn bé gió quạnh quẽ,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chon von;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

a.Thiên nhiên

  • Không gian 3 chiều mở ra bất tận và co giãn cùng từng vạt nắng chiếu xuống lòng sông đẩy bầu trời lên cao thêm, vũ trụ phát triển thành cao chon von. “Sông dài, trời rộng” hình như ko còn đường biên.
  • Giữa ko gian rộng lớn ý những “cồn cát” bé nhỏ đìu hưu và tiếng chợ chiều vọng lại xác xơ mơ hồ như có như ko.
  • Thiên nhiên xuất hiện như 1 bức tranh vừa hoang vu vừa cổ truyền, và lúc đối diện tự nhiên đấy con người hình như đang đi trên ranh giới của cõi tục thế với cõi hư không.

b.Tâm cảnh con người

  • “Lơ phơ” đầu câu, “quạnh quẽ” cuối câu tô đập cảm giác chơ vơ của cái tôi trữ tình. Nhà thơ thấy mình giống như những cồn bé bị vây bọc bởi sự trống trải đìu hiu.
  • “Sâu chon von” là liên kết từ lạ mắt trình bày cảm nhận mới mẻ. “Chót vót” là từ láy chỉ chiều cao, ở đây tác giả dùng để chỉ chiều sâu tun hút của cái ngước nhìn lên như muốn xuyên vào lòng vũ trụ để cảm nhận cái thăm thẳm hoang lạnh trong đáy hồn mình cũng như trong lòng nhân thế
  • “Dài rộng”, “cô liêu” ở câu dưới diễn đạt tâm cảnh lẻ loi
  • Âm thanh tiếng chợ chiều gợi sự sống tan tác tàn lụi, hiển hiện giữa ko gian 3 chiều mơ hồ hư thực.

c.Tiểu kết

Sự đối lập giữa hữu hạn và vô bờ gợi nỗi buồn hoang vắng, cô liêu của 1 cái tôi mất mối liên hệ với vũ trụ, ko tìm thấy điểm tựa ở cuộc đời.

Nêu cảm nhận của bản thân về 2 khổ thơ.

Dàn ý - mẫu 2

I. Mở bài: giới thiệu 2 khổ thơ đầu của bài thơ Tràng giang

II. Thân bài: phân tách 2 khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang

1. Khổ 1: bức tranh tự nhiên mênh mông, vô tận

  • Những vòng nước xô đuổi nhau tới tận chân mây
  • Qua khổ thơ còn trình bày nỗi buồn triền miên của tác giả
  • Sự trôi nổi, phó mặc của tác giả trên dòng sông hữu tình
  • Tâm cảnh chia ly, tán tác

2. Khổ 2: ko gian và thời kì qua bài thơ

  • Không gian hoang vắng, quạnh quẽ
  • Không gian tĩnh mịch, u tịch
  • Không gian được đẩy bất tận
  • Cảnh vật khiến con người phát triển thành bé nhỏ

III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về 2 khổ đầu bài thơ Tràng giang

Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang - mẫu 2

Quảng cáo

Huy Cận là 1 tác giả lừng danh của làng thơ Mới, trong ấy ông được biết tới với 1 hồn thơ “cổ đại nhất”. Ông đã từng hàn ôn “Trước Cách mệnh, tôi thường có niềm vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng đê Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho tôi nhiều xúc cảm.” Và bài thơ Tràng giang đã được có mặt trên thị trường vào 1 chiều lãng mạn tương tự của Huy Cận, tác phẩm được in trong tập Lửa Thiêng (1940). Không chỉ có cảnh đẹp của tự nhiên non sông, Tràng giang còn chứa đựng tâm cảnh, nỗi niềm sâu kín của người nhà thơ. Điều ấy được trình bày rất rõ qua 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang.

Thơ là 1 thể loại mang nhiều ý tứ vì thế người viết thơ ít bao giờ trình bày ngay những suy tư của mình trên bề mặt con chữ nhưng họ thường mượn cảnh tự nhiên để ngụ tình, sau ấy gạn lọc qua từng từ ngữ. Cho nên muốn hiểu hết dụng tâm của thi sĩ, người đọc phải thật chậm rì rì “tháo tầng lớp vỏ”, có tương tự mới chạm tới được tầng sâu nhất nhưng ko khiến nó bị “trầy xước” hay “vỡ bể”. Huy Cận cũng ko ngoại lệ, khởi đầu bài thơ ông đã sử dụng những hình ảnh không xa lạ: con thuyền, dòng sông để qua ấy trình bày xúc cảm của mình:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.”

Lặp lại vần “ang” trong “tràng giang”, tác giả cho thấy 1 ko gian trải dài, rợn ngợp, đây cũng là điểm nhấn cho cá tính thơ của Huy Cận. Ngay sau ấy tâm cảnh của thi sĩ được mở ra với “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn hiện giờ chẳng phải 1 cái gì ấy mung lung, mơ hồ nhưng đã được chi tiết hóa, nó như từng đợt sóng đang gối vào nhau trào dâng, cứ thế ko ngớt vỗ vào bờ. Đọc câu thơ, ta biết được nỗi buồn đấy chẳng dấy lên chỉ mất khoảng ngắn nhưng âm ỉ kéo dài, tựa như sẽ còn đó vĩnh cửu. Từ ‘song song” trong câu thơ sau gợi nên hình ảnh 2 vật, 2 toàn cầu nằm cạnh nhau nhưng mà ko bao giờ có sự va chạm, có sự thân cận nhưng mà chẳng bao giờ gặp mặt. Ở đây tác giả thử muốn nhấn mạnh sự đơn nhất, cô độc của con thuyền trên dòng sông cùng lúc cũng chính là sự độc thân của con người bên dòng đời.

Từ trước tới bây giờ, thuyền và nước là 2 sự vật luôn gắn bó khăng khít hế nhưng mà trong Tràng giang của Huy Cận chúng lại hững hờ tách rời nhau:

“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi 1 cành khô lạc mấy dòng.”

“Thuyền về” nhưng mà “nước lại”, hoạt động trái chiều, lạc nhịp này gợi nên sự cách biệt để từ ấy đem lại cảm giác độc thân, mất mát “sầu trăm ngả”, nhìn ở đâu cũng chỉ thấy buồn bực, sầu thương. Có thể nói rằng trung tâm của khổ thơ đầu chính là câu “củi 1 cành khô lạc mấy dòng” và ‘củi 1 cành khô” là hình ảnh lạ mắt bởi trong thơ ca bấy lâu, nhất là thơ trung đại lúc chất liệu thơ được đưa vào đều phải được trau chuốt, chọn lựa như tùng, cúc, trúc, mai chứ ít có sự vật đời thường, giản dị như củi khô. Kế bên ấy tác giả đã dùng giải pháp đảo ngữ và gạn lọc các từ đơn khiến cho câu thơ như bị gãy gập, rời rạc, mất đi sự kết hợp. Từ “lạc” ở đây được sử dụng rất đắt, nó cho ta thấy đâu ấy 1 thân phận đơn lẻ bị đẩy đưa ngoài ý muốn, chơ vơ giữa bao dòng nước xiết ko biết trôi về nơi đâu. Hình ảnh đặc thù này chính là ẩn dụ cho số kiếp lênh đênh, lạc điệu của con người giữa dương thế bao la, để từ ấy nỗi buồn cứ chập chồng chồng chất.

Sang tới khổ thơ thứ 2, tầm nhìn của nhà thơ đã vượt xa khỏi những gì trước mắt để 1 ko gian hoang vắng, tiêu điều từ từ hiện ra:

“Lơ phơ cồn bé gió quạnh quẽ,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Đọc những câu thơ này của Huy Cận, ta nhớ tới quang cảnh tĩnh mịch gần giống trong Chinh Phụ ngâm:

“Non kì hiu quạnh trăng treo,
Bến Phì gió thổi quạnh quẽ mấy gò.”

Ngọn gió quạnh quẽ này đã vượt ko gian và thời kì, hiện ra thêm 1 lần nữa để làm buồn lòng người nhà thơ. Từ láy “lưa thưa” được tác giả đưa lên đầu câu nhằm nhấn mạnh sự loáng thoáng, rời rạc của cảnh vật, có mấy hòn đất bé mọc trên dòng “Tràng giang” và trên những hòn đất đấy là những lau và sậy mỗi lúc có cơn gió thổi qua nghiêng ngả tách rời, tiêu điều hiu hắt. Qua câu thơ tiếp theo, ta bắt gặp được 1 ko gian mang “hơi người” là chợ, chợ gợi nên bao tiếng sắm bán tấp nập, là tượng trưng cho đời sống kinh tế của 1 vùng thế nhưng mà ở đây chợ cũng chỉ ở đâu ấy văng vẳng ko rõ, sự sống đã đi vào thế tĩnh, ko còn xô bồ tấp nập, trình bày qua từ “vãn”. Nguyễn Trãi cũng đã từng viết về chợ nhưng mà chợ của ông lại náo nhiệt và đông đúc:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ.”

Câu thơ của Huy Cận buồn nhưng mà tinh tế, ông đã khôn khéo lấy cái động để nói cái tĩnh, mô tả tiếng chợ vãn chiều để gợi lên sự tĩnh mịch của ko gian, qua đây thi sĩ muốn biểu thị mong muốn được giao hòa, giao cảm với con người dù chỉ bằng thính giác. Tìm người người chẳng thấy, tác giả tiếp diễn gửi gắm tâm vào tự nhiên cảnh vật để thơ buồn càng buồn hơn:

“Nắng xuống trời lên sâu chon von,
Sông dài trời rộng bến cô liêu.”

Không gian tới đây đã được tác giả mở mang ra 3 chiều là chiều cao, chiều rộng, chiều dài và thậm chí có cả độ sâu. Theo cách diễn tả thông thường người ta thường nói “cao chon von” thế nhưng mà Huy Cận lại dùng “sâu chon von”, ông đã lấy chiều cao để đo chiều sâu, 1 điều chưa từng có tiền lệ để người đọc phải kinh ngạc rằng thật tinh tế và lạ mắt. Trong cái rộng lớn, bất tận của vũ trụ là hình ảnh bé nhỏ, cô độc của con người, đối tượng trữ tình ở đây như bị cuốn sâu vào cõi đời tun hút, bị rợn ngợp trước ko gian vô tận cùng. Dù ko có từ ngữ nào nói đến con đứa ở đây nhưng mà ta vẫn có thể cảm thu được ấy là 1 cá thể bé nhỏ, cô độc, độc thân tới khổ thân. Hai chữ “cô liêu” cuối đoạn thơ được viết ra với âm hưởng man mác 1 lần nữa gợi lên nỗi buồn nhân thế, rằng sự sống quá bé nhoi và hữu hạn còn vũ trụ thì vô bờ, ko dừng mở mang tới hết sức. Nỗi buồn của con người đã lan tỏa khắp ko gian, bao trùm lên mọi cảnh vật. Nếu khổ thơ thứ nhất là “cái lấp láy” cho nỗi buồn thì tới khổ thơ thứ 2 này tâm sự của nhà thơ đã được biểu thị rõ hơn, thâm thúy hơn. Ấy chẳng phải là nỗi buồn của tư nhân Huy Cận nhưng là xúc cảm chung của cả 1 lứa tuổi, đặc thù là giới văn nghệ sĩ đầu thế kỉ XX.

Tràng giang là bài thơ có sự liên kết thuần thục giữa văn pháp cổ đại và đương đại. Trong ấy cái cổ đại được trình bày ở thể thơ, cách đặt đầu đề và việc sử dụng văn pháp tả cảnh ngụ tình. Còn đương đại là ở chỗ xây dựng thi liệu và cách dùng từ mới lạ như “sâu chon von”. Chỉ với 2 khổ thơ đầu của bài, ta đã thấy được tài năng của Huy Cận qua cách chọn lựa từ ngữ hết sức đắt giá và cách ngắt nhịp thơ hiệu quả. Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang, ta cảm thu được cả buồn và đẹp, chúng hòa quyện vào nhau, hình thành những cảm xúc khó nói thành lời. Chắc chắn rằng tác phẩm này của Huy Cận sẽ sáng mãi trong lòng những người tình thơ ca dù thời kì có trôi, dòng đời ko thôi xô bồ, hấp tấp.

Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang - mẫu 3

Quảng cáo

Huy Cận được biết tới với 1 hồn thơ ‘cổ đại nhất trong phong trào Thơ mới”. Ông hàn ôn “Trước Cách mệnh, tôi thường có niềm vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng đê Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho tôi nhiều xúc cảm”. Và bài thơ “Tràng giang” được viết ra trình bày 1 nỗi buồn, nỗi độc thân, lạc điệu của con người trước cuộc đời đặc thù trong phần phân tách 2 khổ đầu bài thơ Tràng giang.

Khởi đầu bài thơ, thi sĩ Huy Cận đã sử dụng hình ảnh thơ không xa lạ: con thuyền, dòng sông để gợi nên xúc cảm:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”

Âm Hán việt “tràng giang” đã được tác giả thử dụng bằng việc hiệp vần “ang”. Nó gợi cho người đọc 1 ko gian rợn ngợp, đây là cách trình bày nổi trội cho cá tính thơ Huy Cận. Tâm cảnh thi sĩ được mở ra “buồn điệp điệp”. Đây là nỗi buồn đang được chi tiết hóa, nó được hữu hình giống như từng đợt sóng dâng trào gối vào nhau, cứ thế ko ngớt vỗ vào bờ. Nỗi buồn đấy dằng dai nhưng âm ỉ, như có sự còn đó vĩnh cửu. Từ “song song” như nhắc đến 2 toàn cầu đứng cạnh nhau nhưng ko bao giờ gặp nhau. Ấy là sự thân cận cơ mà chẳng có sự gặp mặt.

Qua ấy, tác giả nhấn mạnh sự đơn nhất, cô độc của con thuyền trên dòng sông, hay chăng ấy cũng chính là sự đơn nhất của con người bên dòng đời. Nhà thơ Huy Cận đã sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập tạo nét cổ truyền cho khổ thơ. Theo quy luật thuyền và nước là 2 sự vật gắn bó khăng khít, nhưng mà trong bài thư lại có hành động trái chiều, lạc nhịp gợi sự cách biệt, gợi cảm giác độc thân, mất mát:

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi 1 cành khô lạc mấy dòng”

Hình ảnh cành củi khô táo tợn và lạ mắt trong thi ca Việt Nam. Ấy là hình ảnh có 1 ko 2. Huy Cận đã thả vào Thơ mới 1 cành củi khô để nói hộ tấm lòng cả 1 lứa tuổi Thơ mới. Bởi vì, bấy lâu những vật phổ biến ít được đặt vào thơ, đặc thù là thơ cổ, hình ảnh củi khô mang vẻ đẹp giản dị, đời thường nhưng mà lại có trị giá biểu đặt gớm ghê. Tác giả thử dụng giải pháp nghệ thuật đảo ngữ, sử dụng gạn lọc các từ đơn, khiến câu thơ như bị dập gãy, vỡ vụn. & tiếng trong 1 câu thơ nhưng vỡ thành 6 mảnh độc thân, sự độc thân của cành củi khô với sự bất tận của dòng nước.

Cảnh vật vắng tanh, lẻ loi ở khổ thơ thứ 2, tầm nhìn đã được mở mang hơn:

“Lơ phơ cồn bé gió quạnh quẽ
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chon von”

Tác giả thử dụng từ “lưa thưa”, “quạnh quẽ” gợi sự hiện ra ít và loáng thoáng, cảm giác của con người thoáng buồn lúc đứng trước tầm nhìn rộng. Đây là sự cảm nhận bằng thị giác. Kế bên ấy, tác giả còn có sự cảm nhận bằng thính giác: cảm nhận về âm thanh cuộc sống tiếng chợ chiều. Cảnh vật như thiếu vắng hơi ấm của cuộc sống con người, cần lắm tìm tới sự tri ân. Từ “đâu” mang nhịp chậm, giọng buồn nhuốm sầu. Không gian được thắp lên màu nắng, ngày càng tăng cả về chiều rộng, độ cao, chiều sâu. Từ ấy tác giả đã gợi ra 1 ko gian từ mặt nước tới đáy sông, ko gian được đẩy tới cùng tận, khắc họa nỗi buồn, độc thân của con người trước cuộc đời. Tác giả thử ko tìm thấy sợi dây liên hệ với cuộc đời, đem đến sự tuyệt vọng.

Hai khổ thơ đầu bài “Tràng giang”, tác giả Huy Cận đã gợi ra cả ko gian rợn ngợp, nhưng mà tâm cảnh của con người lại mang cảm giác sầu buồn, độc thân, nỗi buồn như trải dài bất tận. Ấy là sự độc thân, độc thân của con người trước dòng đời, và ko tìm thấy sự giao cảm của bản thân với cuộc đời.

Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang - mẫu 4

Huy Cận là 1 thi sĩ phệ, là 1 trong những đại biểu tuyệt vời trong phong trào thơ mới với hồn thơ ảo não, vừa hàm xúc vừa giàu chất suy tư triết lý. Tiêu biểu cho cá tính thơ Huy Cận là thi phẩm Tràng Giang. Đây chẳng những là bài thơ rực rỡ nhất trong tập thơ Lửa Thiêng (1940) nhưng còn là tuyệt tác của thơ ca Việt Nam đương đại. Trong ấy 2 khổ thơ đầu là đoạn thơ hay nhất trình bày 1 cách tinh tế nỗi buồn, nỗi độc thân của thi sĩ trước bức tranh tự nhiên Tràng Giang mênh mang sóng nước.

Bài thơ có tên là Tràng Giang nên ngay từ câu thơ trước tiên chúng ta đã bắt gặp hình ảnh sóng nước rất không xa lạ:

“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp” …

Với văn pháp liên tưởng lạ mắt, thi sĩ nhìn những đợt sóng nhấp nhô dạt trôi vào bờ nhưng liên tưởng tới những con sóng lòng cũng miên man dằng dai. Phcửa ải chăng có bao lăm gợn sóng trên dòng Tràng Giang thì có bấy nhiêu nỗi buồn trong lòng nhà thơ. “Buồn điệp điệp” là nỗi buồn nhẹ nhõm nhưng mà da diết, dằng dai khuôn nguôi. Có thể nói cái tài của Huy Cận là chỉ trong 1 câu thơ ngắn nhưng chất chứa, hòa ước nguyện cả 2 con sóng: Sóng nước (Sóng gợn Tràng Giang) và sóng lòng (buồn điệp điệp) khiến ta có cảm nhận nỗi buồn của tác giả thử hòa tan vào sóng nước và cộng với sóng nước nhưng lan tỏa trên dòng chảy dài.

Trong dòng tâm cảnh đấy thi sĩ trông thấy sự đối lập nghiệt ngã trước những hình ảnh vốn không xa lạ:

“Con thuyền xuôi mái nước song song” ….

Theo quy luật thiên nhiên thuyền và nước vốn là những sự vật luôn gắn bó, đi đôi với nhau, nước chảy thuyền trôi, còn ở đây, hình ảnh thuyền và nước là 2 hình ảnh song song, dưỡng lại thân cận, gắn bó nhưng mà hóa ra lại chia li, cách biệt. Trong văn chương Việt Nam xưa, sự hiện ra của con thuyền, mặt nước, bến sống thường chỉ sự lưu luyến thương nhớ.

“Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì 1 dạ một mực đợi thuyền”

Còn hình ảnh con thuyền, dòng nước trong câu thơ Huy Cận lại phó mặc, buông xuôi tới dửng dưng. Sở dĩ có sự không giống nhau tới tương tự là vì dưới cái nhìn của thi sĩ, dòng sông càng bao la bao lăm thì con thuyền càng phát triển thành bé nhỏ bấy nhiêu. Trên dòng chảy càng mênh mang thì con thuyền càng phát triển thành cô độc, độc thân, đáng thương, đáng khổ thân bấy nhiêu. Với thủ pháp đối lập, thi sĩ đã gây được sự để mắt giữa cái hữu hạn của con thuyền và cái vô bờ của dòng sông, giữa cái tôi độc thân của thi sĩ trước vô bờ mênh mang của cuộc đời. Tới với câu thơ thứ 3 ta càng cảm nhận rõ nét hơn sự đối lập chia li dửng dưng cách biệt giữa thuyền và bến.

“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả”…

Nhà thơ đã khôn khéo sử dụng giải pháp tiểu đối thuyền về nước lại để diễn đạt sự chia ly giữa thuyền và nước. Hai động từ “về” và “lại” hiện ra trong 1 câu thơ diễn đạt vận động ngược chiều, và sự chia li giữa “thuyền xuôi – nước ngược”, giữa kẻ ở – người đi khiến người đọc cũng cảm nhận cả câu thơ những nỗi buồn, nỗi sầu nhân thế. Nỗi sầu vốn vô hình, trừu tượng nhưng mà đặt trong ko gian trăm ngã bỗng phát triển thành chi tiết và có tầm vóc phệ lao. Đặc trưng nỗi sầu đấy càng được đẩy lên cao tới cực điểm lúc có sự hiện ra của 1 hình ảnh rất mới lạ gây ấn tượng mạnh bạo nhưng ta hiếm gặp trong thơ xưa.

Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang - mẫu 5

“Trên cánh đồng văn học phì nhiêu người nghệ sĩ như những hạt cát bụi bay lượn trong ko khí để tìm cho mình những dư vị còn lại”. Với Huy Cận ông tìm về nơi lặng tờ của quê hương, xứ sở ấy là dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa, nguồn cảm hứng của ông được khơi nguồn từ ấy và đọng lại ở “Tràng Giang” điều ấy được trình bày trong 2 đoạn thơ đầu của bài thơ.

“Thơ là ngôn ngữ của tình cảm và xúc cảm. Nếu ko có xúc cảm thì người nghệ sĩ chẳng thể sáng hình thành những vần thơ hay ngôn từ cũng chỉ là xac chữ nằm thẳng đơ trên trang giấy”. Trước hết nhà thơ phải là người có tâm hồn, giàu rung cảm,thông cảm thâm thúy toàn vẹn với phút chốc của cuộc đời thì xúc cảm mãnh liệt mới dạt dào được. Chính những xúc cảm ấy đã thôi thúc tác giả sáng tác về quê hương với hình ảnh tự nhiên không xa lạ. Huy Cận với những rung cảm, ông đã chuyển hóa thành xúc cảm nhưng viết thành thơ. Và Tràng giang là 1 trong những tác phẩm sắc của ông, bài thơ được gợi xúc cảm và 1 buổi chiều 5 1939 tác giả đứng ở bên bờ Nam Bến Tràng, trước cảnh sông Hồng mênh mông sông nước, những xúc cảm thời đại đã dồn về, nhà thơ thấy cái tôi của mình quá bé nhỏ với vũ trụ rộng lớn. Nên ông đã viết bài thơ này, và 2 khổ thơ đầu của bài thơ là cảnh sông Hồng mênh mông là những nỗi buồn vạn cổ của nhà thơ trước cảnh vật

“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi 1 cành khô lạc mấy dòng
Lơ phơ cồn bé gió quạnh quẽ
Đâu tiếng Làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chon von
Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Khởi đầu là cảnh sông Hồng mênh mông sóng nước, ở khổ thơ đầu tác giả thử dụng 1 loạt các từ: “thuyền, nước” là các từ nhưng thi sĩ xưa hay dùng để mô tả cảnh tự nhiên đẹp tươi. Đây như là 1 bức tranh thủy mặc, đầy đủ cảnh sông nước lãng mạn, yên ắng êm ả nhưng mà lại buồn tới tái tê. Nói về nỗi buồn đấy, Hoài Thanh đã nhận xét: “tự nhiên trong thơ mới đẹp nhưng mà lại thấm đượm Nỗi buồn da diết bâng Khuâng”. Nỗi buồn ấy lại được Huy Cận lý giải rằng “chúng tôi khi ấy có 1 nỗi buồn lứa tuổi, nỗi buồn ko tìm được lối ra nên kéo dài miên man”. Ấy là nỗi buồn của những con người sống trong cảnh nước mất nhà tan, có nhẽ thế nên trong dòng Tràng Giang chỉ có 1 giải buồn mênh mông

“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”

Từ “điệp điệp” là gợi tả những con sóng gợn lên hết lớp này tới lớp khác, miên man bất tận. Buồn điệp điệp mô tả cái buồn tự nhiên nhưng mà bản chất nó đang diễn đạt 1 nỗi buồn của thi nhân, đang gợn lên theo từng đợt sóng. Những con sóng vỗ vào bờ. Thuyền và nước là 2 cảnh vật luôn đồng hành nhau gắn bó với nhau ko bao giờ cách biệt, vậy nhưng trong mắt Huy Cận nó phát triển thành chơ vơ lạc điệu. Từ ấy nhưng nỗi sầu của thi sĩ lan tỏa ra vũ trụ “sầu trăm ngả” ở đây ko gian vừa được mở ra về chiều rộng, vừa vươn lên theo chiều dài. Thành ra hình ảnh này khiến ta liên tưởng tới 2 câu thơ trong bài “trăng cao” của Đỗ Phủ

“vô bờ niên mộng tiêu tiêu hạ
Vô tận Trường Giang cổ kim cổ”

Thuyền là hiện diện của sự sống con người nhưng mà rồi sự hiện ra đấy cũng chỉ lướt qua trong giây lát, sau ấy nó lại nép mình vào bờ bến. Trả lại sự bình an, nhìn luồng sóng “Con thuyền xuôi mái” Đây là 1 sự liên tưởng tới sự lạc điệu kiếp sống trôi nổi, phải chăng tác giả cũng từng sống trong cảnh ngộ đấy.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi 1 cành khô lạc mấy dòng”

ở 2 câu thơ này Huy Cận đã sử dụng phép đối cực kỳ táo tợn. Chỉ đối ý, đối hình nhưng câu thơ vẫn tương hợp hài hòa con thuyền và cành củi khô đang cùng trôi nổi trên dòng Trường Giang. Trong thơ của Huy Cận đã nói nhiều tới nỗi sầu vạn cổ, buồn thiên thu. Tới bài thơ này ta lại bắt gặp 1 cái xấu nữa “sầu trăm ngả” ko chỉ với 3 từ ây thôi ta đã thấy sầu của nhà thơ trải dài khắp cảnh vật nơi đây. Nếu trong thơ Xưa nhà thơ thường dùng các chất liệu tùng cúc trúc mai, làm chất liệu sáng tác thì ở đây Huy Cận lại đưa vào trong thơ 1 hình ảnh hết mực tầm thường và không xa lạ “Củi khô” nhận xét về cành Củi khô ấy Nguyễn Đăng Mạnh đã viết “lần trước tiên trong lịch sử thơ ca loài người có 1 cành củi khô dạt trôi giữa dòng trong thơ Huy Cận”. Như nỗi buồn của kiếp người trong xã hội cũ, khổ thơ này được xem là khổ thơ rực rỡ nhất của bài thơ, vì ở đây mang âm điệu buồn tái tê, khám phá được ở ấy là cảnh vật tự nhiên tràn trề nỗi buồn, da diết… cảnh trời rộng sông dài ở đây diễn đạt sự mênh mông, trống rỗng trình bày nỗi buồn miên man của Huy Cận và cảnh sông Hồng.

Tiếp với nỗi sầu vạn cổ, buồn thiên thu đấy, nỗi buồn được nhân lên gấp bội. Bức tranh sông nước được vẽ thêm đất, thêm làng nhưng mà vẫn buồn tới tái tê, nỗi buồn đấy được gợi tả từ những cồn bé, thêm vào ấy là sự hiu hắt thổi nhẹ của gió, sự yên ắng vắng tanh của cảnh vật,

“lưa thưa cồn bé gió quạnh quẽ
đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

Huy Cận nói ông đã được đọc 2 chữ quạnh quẽ đấy từ Chinh Phụ Ngâm

“Non kì hiu quạnh trăng treo
bên Phi gió thổi quạnh quẽ mấy gò”

Cảnh sắc trong Chinh Phụ Ngâm đã tĩnh mịch, hiu hắt nhưng mà cảnh trong Tràng Giang lại vắng tanh hiu hắt hơn. Từ láy lưa thưa diễn đạt sự loáng thoáng, rời rạc của những cồn bé mọc lên giữa tròng trắng xanh trình bày nỗi buồn man mác theo gió nhẹ thấm lên từng cảnh vật, thi sĩ muốn tìm tới hơi ấm của con người để xua bớt đi cái lạnh lẽo, đìu hiu ở đây nhưng mà

“đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

Tiếng chợ ở đâu ko xác định được, từ xưa Nguyễn Trãi đã dùng vẻ âm thanh đấy trong bài Cảnh Ngày Hè

“lao xao chợ cá làng Ngư Phủ
Dắng dỏi Cầm ve lầu tà dương”

Âm thanh của tiếng chợ vãn đã tiêu hao và ko xác định được. Như vậy nhà Thơ lấy động tả tĩnh để mô tả nỗi buồn sâu lắng của nhà thơ, 2 câu thơ tiếp của khổ thơ bức tranh vô bờ của Tràng Giang đã đạt tới sự khôn xiết

“nắng xuống trời lên sâu chon von
Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Tới đây Huy Cận mô tả ko gian 3 chiều giữa cảnh và người, nhà thơ như 1 vật bé nhỏ chơi vơi giữa bến đò với những vạt nắng trên bầu trời chiếu xuống mặt đất trong xanh, khiến ta liên tưởng tới bầu trời xanh được đẩy lên cao hơn, xa hơn. Ở đây tác giả ko dùng chữ “cao chon von” cơ mà dùng “sâu” để diễn đạt độ cao của trời xanh, từ ấy cho chúng ta thấy rằng đứng trước cảnh vật đấy con người càng lạc điệu bé nhỏ độc thân tới tột bậc. Chính sự lạc điệu đấy đã hình thành cho 2 khổ thơ này 1 nỗi buồn tái tê, mang đậm xúc cảm tình cảm của nhà thơ, và nỗi buồn đấy ẩn chứa nỗi sầu vạn cổ, buồn thiên thu của tác giả.

Thành công của 2 khổ thơ chính là sự thông minh nghệ thuật, sự liên kết hài hòa giữa cổ đại và đương đại. Sử dụng nhiều thi liệu trong thơ cổ, từ ngữ giản dị, giàu hình ảnh. Góp lại những trang thơ của Huy Cận ta ko khỏi quên được nỗi buồn tái tê của nhà thơ trước cảnh vật, cảnh nước mất nhà tan. Bài thơ vừa mang đậm cá tính của Huy Cận, vừa là 1 dấu son chói lọi trong nền thơ ca Việt Nam và trong lòng độc giả.

Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang - mẫu 6

Mỗi 1 thi sĩ trong phong trào thơ Mới đều diện cho mình 1 bộ trang phục tối tân không giống nhau, 1 cá tính, 1 giọng riêng ko tìm thấy trong bất kì cổ họng của 1 ai khác. Và Huy Cận, bằng nỗi sầu nhân thế, sầu vũ trụ, ông đã đem nhặt nhạnh chút buồn tản mạn để gom góp nên những vần thơ đau buồn, ảo não trong “Tràng Giang”. Đặc trưng với 2 khổ đầu bài thơ, bức tranh tự nhiên hùng vĩ nhưng đượm buồn cùng tâm cảnh chơ vơ, thất vọng đã góp phần làm nên sắc thái rất riêng, rất Huy Cận.

Có thể nói, từng khổ thơ trong Tràng Giang đều được coi như những bài thơ riêng, mỗi khổ đều mang những hương vị vừa cổ đại, vừa đương đại, đều chứa những rực rỡ thu hút. Khổ đầu:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi 1 cành khô lạc mấy dòng.”

Hình ảnh “tràng giang” gợi lên 1 con sông dài, rộng hùng vĩ, với những đợt sóng tung bọt trắng xóa, tượng trưng cho vẻ hùng vĩ của tự nhiên, sông nước. Nhưng, những đợt sóng đấy lại cứ nối dài miên man, gối đầu nhau trong những cơn buồn “điệp điệp”. Con thuyền lại 1 lần nữa hiện ra, ấy là hình ảnh khá không xa lạ ta từng gặp trong nhiều tứ thơ khác:

“Cô chu nhất hệ cố viên tâm.”(Con thuyền buộc chặt mối tình quê).

(Thu hứng-Đỗ Phủ).

Con thuyền trên sông tống biệt người bạn tri âm trong thơ của Lí Bạch ở bài “Tống mạnh hạo nhiên chi Quảng lăng”:

“Cô phàm viễn ảnh bích ko tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.”

Hình ảnh con thuyền đã biến thành 1 thi liệu không xa lạ, cổ đại thường gợi sự độc thân. Con thuyền đấy dạt trôi mênh mang, vô định trên sông nước, gợi sự độc thân và vô định của kiếp người. Thuyền và nước gắn liền nhau, ở đây nước sông và con thuyền lại chia đôi ngả, thuyền xuôi mái song song, từ ấy thấy sự chơ vơ, lạc điệu của kiếp người trôi nổi. Để con thuyền và nước sông vốn gắn bó đấy cơ mà chia xa, làm cho “thuyền về nước lại sầu trăm ngả”để bỏ buồn cho dòng sông. Phcửa ải chăng chính nỗi buồn của hồn người đã bỏ buồn cho cảnh vật. câu thơ cuối khổ là 1 hình ảnh ngồn ngộn chất sống được đưa vào thơ, ấy cũng chính là ý thức thơ Mới, là sự thông minh của Huy Cận để thấy được tinh thần “tập cổ nhưng ko nệ cổ”:

“Củi 1 cành khô lạc mấy dòng.”

Hình ảnh 1 cành củi khô đã được hoán đổi bằng tài năng và sự tinh tế trong tuyển lựa và diễn tả của Huy Cận. nếu thơ ca trung đại thường hay chọn những hình ảnh ước lệ quyền quý thì tới thơ Huy Cận, ông đã chuẩn bị đưa những chất sống ngồn ngộn, sống sít của đời sống thực tại phồn tạp vào thơ ca “cành củi khô”, rất sống động và thân cận với cuộc sống hàng ngày và khiến những vật vô tri vô giác cũng phát triển thành có vong hồn. cành củi khô đã gợi tới sự sống héo úa, ủ nát và mất hết dần thuộc tính sống, hay chính là sự chết chóc vì củi khô còn đâu sức sống nữa. Nhưng còn buồn bực và đớn đau hơn là cành củi khô đấy còn “lạc mấy dòng”., cho thấy sự độc thân, lạc điệu và thất vọng của kiếp người. Hình ảnh 1 cành củi khô lạc mấy dòng đấy hay chính là ẩn dụ cho thân phận và số kiếp lênh đênh, lạc điệu chơ vơ của con người giữa cuộc sống xô bồ, tấp nập này chăng? Qua ấy, bí mật bộc bạch 1 niềm đau nỗi xót của Huy Cận. sang tới khổ thơ thứ 2, quang cảnh lại được thêu dệt thêm những nét tiêu điều, thê lương:

“Lơ phơ cồn cỏ gió quạnh quẽ
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chon von
Sông dài trời rộng bến cô liêu.”

Hình ảnh cồn cỏ lưa thưa, quạnh quẽ xơ xác 1 lần nữa thêm vào những nét vẽ tiêu điều, xác xơ cho cảnh vật. có độc nhất vô nhị 1 hình ảnh về sự sống được hiện ra nhưng mà cũng lãn vãn, ít oi. Chợ là tượng trưng cho cuộc sống nhộn nhịp, tấp nập và đời sống kinh tế của 1 vùng, Đó thế nhưng chợ ở đây cũng đâu ấy văng vẳng ko rõ, đã vãn từ lâu sự sống đã đi vào thế tĩnh, ko còn tấp nập như trước nữa. Tiếp tục những nét vẽ cho bức tranh cảnh quan, ko gian xuất hiện càng thêm hùng vĩ. Nắng dồn xuống tận đáy sông và hình ảnh trời dồn lên về phía cao, làm cho mặt phẳng ko gian như bị chia cắt, bị nén chặt và cắt giữa, gây cảm giác ngột thở, khó chịu cho đối tượng trữ tình. Sông dài ấy, nhưng mà bến cô liêu, lại 1 lần nữa sự độc thân hiện ra đầy những nỗi buồn càng thấm sau vào 3 chiều của ko gian, thấm tái tê vào lòng người.

Qua 2 khổ thơ đầu, với những hình ảnh cổ đại không xa lạ và chất đương đại chính là ở ý thức cái tôi thơ Mới. Cũng là nỗi buồn nhưng mà nó ko còn gắn với quan niệm và chuẩn mực về đạo đức, trung hiếu tiết nghĩa như thơ ca trung đại, nhưng ấy là nỗi buồn của riêng tư nhân cảm thấy chơ vơ, thất vọng và lạc điệu trước thực tại. Thiên nhiên vì vậy dù mênh mang, hùng vĩ nhưng mà rất cô liêu và tiêu điều, hoang xơ. Bằng tình yêu tự nhiên và trái tim của 1 cái tôi thơ Mới, với những giọng riêng, Huy Cận đã làm nên những vần thơ thật tinh tế nhưng thấm đượm xúc cảm buồn bực, thê lương.

Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang - mẫu 7

Là 1 trong những thi sĩ lừng danh trong phong trào thơ mới, Huy Cận để lại cho kho tàng văn chương Việt Nam rất nhiều tác phẩm rực rỡ. Bài thơ “Tràng Giang” được ông viết trong giai đoạn trước cách mệnh với 1 nỗi u buồn, sự thất vọng của 1 kiếp người, trôi nổi lênh đênh ko bến đỗ. Nỗi buồn đấy được trình bày rõ nét ngay trong 2 khổ thơ đầu.

Khởi đầu bài thơ, Huy Cận cho người đọc thấy được những hình ảnh hết mực không xa lạ: sóng, con thuyền, dòng sông để gợi nên xúc cảm:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”

Tác giả khôn khéo sử dụng âm Hán Việt “ang” cho danh từ “tràng giang” gợi 1 ko gian bao la, rờn ngợp. Đây cũng là 1 trong những cá tính làm thơ rất nổi trội của Huy Cận. Khi này, tâm cảnh của thi sĩ phát triển thành “buồn điệp điệp” – nỗi buồn được chi tiết hóa, được nếu như từng đợt sóng dâng trào gối vào nhau, liên tục vào bờ. Nỗi u buồn đấy hình như còn đó vĩnh cửu, cứ âm ỉ và dằng dai mãi trong lòng tác giả. Từ láy “song song” như muốn nhắc đến 2 toàn cầu, dù luôn thân cận ở bên nhau nhưng mà chẳng bao giờ được gặp nhau.

Thông qua 2 câu thơ, tác giả đã cho chúng ta thấy được sự cô độc, đơn nhất của con thuyền trên dòng sông, ẩn dụ cho hình ảnh cô độc của con người trên dòng đời. Huy Cận đã thành công sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập để hình thành nét cổ truyền cho câu thơ. Con thuyền và dòng nước luôn gắn bó khăng khít với nhau, nhưng mà qua cách trình bày của thi sĩ chúng lại có hành động trái chiều, lạc nhịp gọi cảm giác cách xa, độc thân,

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi 1 cành khô lạc mấy dòng”

Có nhẽ Huy Cận là người trước tiên sử dụng hình ảnh cành củi khô trong lời thơ của mình, 1 hình ảnh lạ mắt và táo tợn. Tác giả muốn cho mọi người thấy những nét phá cách trong phong trào thơ mới, trong khi trước đây những vật phổ biến rất ít được cho vào. Hình ảnh củi khô đời thường với 1 vẻ đẹp giản dị lại có 1 trị giá biểu đạt gớm ghê. Huy Cận khôn khéo sử dụng giải pháp nghệ thuật đảo ngữ và chọn lựa những từ đơn để mô tả sự độc thân của cảnh củi khô lênh đênh trong sự bất tận của dòng nước.

Trong khổ thơ thứ 2, tác giả mô tả cảnh vật lẻ loi, vắng tanh với ko gian mở mang:

“Lơ phơ cồn bé gió quạnh quẽ
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chon von
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Các từ láy “lưa thưa”, “quạnh quẽ” gợi nên sự bé nhỏ, ít oi giữa 1 ko gian mênh mang bất tận – đây chính là sự cảm nhận bằng thị giác. Ngoài thị giác thì tác giả còn có những cảm nhận bằng thính giác với những âm thanh của cuộc sống với tiếng làng xa vãn chợ chiều. Màu nắng chiều cộng với cảnh vật sông dài, trời rộng, bến thuyền cô liêu càng khắc họa nỗi độc thân, nỗi buồn của con người trước cuộc đời. Người đọc có thể đơn giản cảm nhận thấy sợ tuyệt vọng của tác giả lúc chẳng thể tìm thấy sợi dây liên hệ nào với cuộc đời.

Hai khổ thơ đầu bài “Tràng Giang” của tác giả Huy Cận đem đến 1 ko gian rợn ngợp với nỗi buồn và sự độc thân trải dài bất tận. 1 sự độc thân, lẻ loi của con người trước dòng đời, ko tìm thấy sự kết nối với toàn cầu ngoài kia. Cũng có nhẽ vì thế nhưng tác phẩm luôn được nhiều bạn đọc thích thú, ko bị bụi của thời kì phủ mờ.

Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang - mẫu 8

Thơ là cây đàn muôn diệu của tâm hồn của nhịp thở con tim, thơ diễn đạt rất thành công mọi cung bậc xúc cảm của con người, thú vui, nỗi buồn sự độc thân bế tắc. Có những tâm cảnh của con người chỉ có thể diễn tả bằng thơ, vì thế thơ ko chỉ nói hộ lòng mình nhưng thơ còn trình bày những băn khoăn nghĩ suy về sự chuyển đổi của sự thế với xúc cảm dạt dào lúc thấy cái tôi bé nhỏ trước vũ trụ rộng lớn Huy Cận đã viết nên tác phẩm “Tràng Giang”, đặc thù qua 2 khổ thơ đầu của đoạn thơ ta cảm nhận rõ được điều ấy.

Quả ko sai lúc nói rằng với người làm thơ, thơ là công cụ biểu đạt cho xúc cảm xúc cảm tâm thành, mãnh liệt mới là cơ sở hình thành 1 tác phẩm nghệ thuật chân chính, xúc cảm càng mãnh liệt, thăng hoa thơ càng có sức ám ảnh trái tim độc giả.

Mang trong mình sứ mạng cao cả của 1 thi sĩ lúc thông minh nghệ thuật cộng với nỗi buồn sự thế đầy thâm thúy Huy Cận đã xây dựng được 1 cá tính hoàn toàn mới mẻ, khác với những thi sĩ cùng thời. Tiêu biểu cho cá tính nghệ thuật của ông có thể kể tới “Tràng Giang”, theo lời kể của Huy Cận bài thơ được gợi xúc cảm từ 1 buổi chiều thu 5 1939 lúc tác giả đứng ở bờ Nam Bến Chèm. Trước cảnh sông Hồng mênh mông sóng nước, những xúc cảm thời đại đã dồn về lúc nhà thơ thấy cái tôi của mình quá bé nhỏ so với vũ trụ nên ông đã gửi gắm vào trong tác phẩm.

Và xúc cảm của thi sĩ có nhẽ trình bày rõ nhất qua 2 khổ thơ đầu.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả,
Củi 1 cành khô lạc mấy dòng

Lơ phơ cồn bé gió quạnh quẽ,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chon von,
Sông dài trời rộng bến cô liêu”.

Hai khổ thơ là bức tranh tự nhiên sông nước hùng vĩ cùng lúc ẩn chứa trong ấy là 1 trái tim đa sầu, đa cảm với biết bao xúc cảm tràn đầy ko nói nên lời.

Khởi đầu bài thơ Nhà thơ Huy Cận đã sử dụng 1 loạt các thi liệu trong thơ Đường “thuyền, sóng”. Đây là 1 bức tranh đẹp nhưng mà lại buồn tới tái tê, nói về điều này nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét tự nhiên trong thơ mới đẹp, nhưng mà lại buồn tới da diết bâng khuâng. Nỗi buồn ấy được lý giải trong câu nói của Huy Cận khi ấy chúng tôi mang 1 nỗi buồn ấy là nỗi buồn lứa tuổi, chưa làm được gì cho non sông trước cảnh nước mất nhà tan.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song”.

Từ “điệp điệp”, đã diễn đạt tinh tế hình tượng của sóng nước. Những con sóng đấy sao hết lớp này tới lớp khác miên man, bất tận. Ở đây thi sĩ mô tả cái buồn của tự nhiên hay cái buồn của con người, có nhẽ là cả 2 bởi Nguyễn Du từng viết.

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Chừng như nỗi buồn của tâm trạng đã nhuộm vào ngoài cảnh để rồi những nỗi buồn đấy gợi lên theo từng đợt trong lòng thi nhân.

Thuyền và nước là 2 sự vật luôn đi cộng với nhau vậy nhưng ở trong tác phẩm này nó lại phát triển thành chơ vơ, lạc điệu. Thuyền là hiện diện của sự sống con người, nhưng mà ấy chỉ là sự hiện ra thoáng qua trong giây khắc, “con thuyền xuôi mái” là hình ảnh thực nhưng mà cũng đầy chất suy tưởng nó gợi cho ta nhớ đến hình ảnh của những kiếp người trôi nổi, lạc điệu ko biết đi đâu. Phcửa ải chăng chính Huy Cận cũng đã bắt gặp bóng vía ấy trong cuộc đời mình lúc.“Bâng khuâng đứng giữa 2 dòng nước, Chọn 1 dòng hay để nước trôi đi”.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả,
Củi 1 cành khô lạc mấy dòng”.

Phcửa ải chăng cành củi khô đấy cũng chính là nỗi độc thân lạc điệu trong lòng tác giả, chính khi bắt gặp cành củi khô đấy tác giả đã đối diện với những cái hữu hạn phệ lao của đất trời từ ấy nỗi sầu nhân thế đấy đã được nêu lên biến thành nỗi buồn chung của 1 lứa tuổi thanh niên yêu nước. Vẫn là bức tranh thủy mặc sông nước đấy nhưng mà nó đã được vẽ thêm đất, thêm làng vậy nhưng nỗi buồn tê tái đấy vẫn hiện diện, nó được gợi lên qua sự tiêu điều của những cồn cỏ, sự hiu hắt của gió và sự vắng tanh của cảnh vật.

“Lơ phơ cồn cỏ gió quạnh quẽ,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”,

Trong Chinh Phụ ngâm ta đã từng bắt gặp:

“Non kỳ hiu quạnh trăng treo,
Bến phì gió thổi quạnh quẽ mấy gò”.

Chừng như ngọn gió quạnh quẽ đấy đã vượt thời kì, xuyên ko gian và trôi vào thơ Huy Cận. Từ láy “lưa thưa”, đã diễn đạt được sự loáng thoáng, rời rạc của những hòn đất bé mọc trên dòng “Tràng Giang”. Trên những cồn đất đấy là hình ảnh của những cây lau, cây sậy mỗi lúc gió thoáng qua nó phát triển thành hắt hiu tiêu điều.

Câu thơ như chùng xuống càng xoáy sâu vào tâm hồn của thi sĩ, khiến ông càng phát triển thành bất lực và muốn tìm tới hơi ấm của con người. “Đâu tiếng làng xa”, là ở đâu ko xác định, âm thanh đấy nghe thật mơ hồ, vậy nhưng ấy lại là âm thanh của chợ đã vãn nghe càng buồn hơn, cũng viết về chợ nhưng mà trong thơ của Nguyễn Trãi hình ảnh đấy lại hiện lên thật náo nhiệt đông đúc.

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ”

Vui nhất là âm thanh của chợ vui, buồn nhất là âm thanh của chợ vãn. Ở câu câu thơ này cái tinh tế của Huy Cận là ở chỗ ông lấy động để nói tĩnh, lấy tiếng chợ vãn để gợi nên ko khí tĩnh mịch của ko gian cùng lúc trình bày mong muốn được giao hòa, giao cảm của con người dù ấy chỉ là thính giác.

Đã có quan điểm cho rằng, dòng Tràng giang là 1 giải buồn mênh mông. Thật đúng tương tự và 2 câu thơ tiếp theo cái buồn của tự nhiên của con người đã được tác giả đặt tới cái khôn xiết của nó.

“Nắng xuống trời lên sâu chon von,
Sông dài trời rộng bến cô liêu”.

Tới đây thi sĩ đã vẽ nên 1 ko gian 3 chiều bao la là chiều cao, chiều dài, chiều rộng, còn thi sĩ thì đứng ở bến cô liêu nơi giao thoa của vũ trụ đối lập giữa ko gian phệ lao với cái tôi bé nhỏ của con người, từng vạt nắng chiếu xuống mặt nước phản chiếu lên bầu trời ko gian như được đẩy lên cao hơn tới sự cùng cực của nó “sâu chon von”, là từ ngữ ko chỉ để nói về độ sâu, nhưng còn dùng để nói về độ cao, tạo cho người đọc cảm giác về sự rợn ngợp của ko gian và đứng trước ko gian ấy con người càng phát triển thành bé nhỏ đáng thương hơn.

Cuộc sống là điểm xuất hành là, nhân vật khám phá, là cái đích của thơ ca. Những tác phẩm nghệ thuật chân chính luôn bắt rễ từ đời sống hiện thực và có sức lan tỏa mãi trong trái tim độc giả. Tới với Tràng Giang của Huy Cận ta như khám phá được những nỗi niềm thi sĩ ký thác, nghe được tiếng thở dài bất lực của thi nhân trước cảnh sơn hà đang chìm trong khói lửa của chiến tranh, sự liên kết hài hòa giữa cổ đại và đương đại, sử dụng nhiều thi liệu trong thơ cổ, từ ngữ giản dị giàu hình ảnh, tất cả đã được làm nên thành công cho Tràng Giang của Huy Cận.

Tác phẩm đã khép lại nhưng mà mỗi lần đọc bài thơ khái quát và 2 khổ thơ đầu nói riêng ta như thấy được nỗi sầu nhân thế của tác giả trong cảnh tự nhiên hùng vĩ. Phân tích 2 khổ đầu bài thơ Tràng giang nhưng mà có nhẽ ấy chính là lý do vì sao dù có mặt trên thị trường đã lâu nhưng mà Tràng Giang vẫn ko bị bụi thời kì phủ mờ nó vẫn còn sáng mãi trong lòng độc giả yêu thơ nhiều lứa tuổi.

Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang - mẫu 9

Phong trào Thơ mới đã ghi lại 1 công đoạn đầy chuyển biến của thi ca. Ấy là giai đoạn nở rộ của nhiều tài năng văn chương. Kế bên Thế Lữ – người đi đầu, Xuân Diệu – “thi sĩ mới nhất trong các thi sĩ mới”, người ta còn nhớ tới Huy Cận – “1 hồn thơ ảo não” (Hoài Thanh). Huy Cận đã đóng góp vào thơ ca 1 mối sầu nhân thế, 1 cái tôi độc thân, buồn bực trước dòng đời. Với sự pha trộn giữa cổ đại và đương đại, ông gửi gắm nỗi niềm đấy trong nhiều bài thơ, trong số ấy phải kể tới “Tràng giang”. Có 2 điều đọng lại sau lúc đọc xong bài thơ này là ko gian bất tận của ngoại cảnh và nỗi buồn. Nhưng vượt lên trên hết, văn pháp đặc biệt và thuần thục giữa chất cổ đại và đương đại đã vẽ nên 1 bức tranh tự nhiên thật tươi đẹp, trình bày rất rõ trong 2 khổ thơ đầu của tác phẩm.

Khổ đầu của bằng thơ, tác giả đã vẽ ra 1 ko gian bao la mênh mang của sóng nước. Mở mang cùng ko gian bao la là sự mở mang về xúc cảm con người.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi 1 cành khô lạc mấy dòng”

Khởi đầu bằng hình ảnh sông nước mênh mang của“sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”. Tràng giang dài rộng đang trải ra từng đợt sóng điệp điệp ko dứt. Động từ “gợn”: diễn đạt làn sóng nhẹ nhõm có vẻ mỏng manh, mơ mòng nhưng mà lại lan mãi ko thôi. Nỗi buồn trải ra cùng các gợn sóng. Bao nhiêu gợn sóng là có bấy nhiêu nỗi buồn.

Từ “Điệp điệp” giàu trị giá vừa là hình ảnh vừa là tâm sự. “Điệp điệp” thường được dùng để mô tả hình ảnh của núi nhưng mà ở đây tác giả lại sử dụng để mô tả nỗi buồn. Tác giả đã biến nỗi buồn từ 1 định nghĩa trừu tượng thành hữu hình, nó vừa gợi từng đợt sóng chồng chất, tầng phân khúc lớp, vừa diễn đạt điệp điệp nỗi sầu.

Khi phân tách 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang, ta thấy sóng gợn là sóng nhẹ lăm tăm xao động, gợi cảm giác những vòm sóng như đang lan ra, xô đuổi nhau kéo tới tận chân mây. Tràng giang gợi liên tưởng tới trường giang. Nhưng ở từ trường giang mới chỉ ngừng lại ở việc diễn đạt độ dài của dòng sông thì tràng giang chừng độ rộng mở của ko gian còn được mở mang theo cả chiều rộng. Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang, ta thấy cả ko gian bao la như lan tỏa hòa vào nhau, chiều kích ko gian được mở ở biên độ cao nhất của chiều rộng và chiều dài.

Cùng lúc 2 vần ang nối liền nhau tạo được âm hưởng về 1 dòng sông bao la rộng lớn giữa trời đất khiến ta liên tưởng tới dòng sông trong thơ ca cổ đại

“Cô phàm viễn ảnh bích ko tận
Duy kiến trường giang thiên tế lưu”

(Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng – Lý Bạch)

Từ láy điệp điệp thông thường điệp điệp được dùng để chỉ vật chất hoặc hình ảnh chi tiết nhưng mà ở câu thơ này lại được dùng chỉ tâm cảnh của thi nhân. Ấy là nỗi buồn liên tục hết sức bất tận khôn nguôi tạo dư 3 cho lời thơ. Dòng sông phệ mang trong mình nỗi buồn phệ. Âm hưởng gợi lên cái mênh mông mênh mang có phần cổ truyền gần với thơ xưa

“Vô tận trường giang cổn cổn lai”
(Đăng cao – Đỗ Phủ)

“Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”

Hình ảnh thuyền xuôi mái được đặt cạnh hình ảnh nước song song làm cho con thuyền như đang buông xuôi mặc cho dòng nước xô đẩy. Hay đây cũng chính là căn số con người bất lực, buông xuôi mặc dòng đời xuôi ngược. Thuyền về nước lại: 2 sự vật vốn gắn bó với nhau nhưng mà dặt trong tương quan dòng thơ như tách biệt với nhau.

Qua 2 đoạn thơ đầu người đọc cảm thu được sầu trăm ngả là nỗi buồn vốn là 1 định nghĩa trừu tượng chỉ xúc cảm tâm cảnh con người nhưng mà trong liên kết lạ mắt “sầu trăm ngả” nỗi buồn như có hình có khối. Nỗi sầu trăm ngả đấy là của “thuyền về” hay của “nước lại”. Nghệ thuật đối lập con thuyền – nước song song, thuyền về – nước lại: nhằm nhấn mạnh sự đối lập giữa cái bé bỏng và cái bao la, ngược chiều chia cắt. Từ ấy gợi dự cảm về 1 nỗi buồn chia ly.

“Củi 1 cành khô lạc mấy dòng”

Để có được dòng thơ này tác giả đã phải trải qua 7 lần tu sửa. Thông thường để diễn đạt căn số con người, thi nhân sẽ dùng hình ảnh cái bèo. Nhưng hình ảnh cái bèo chỉ ngừng lại ở việc gợi lên 1 cuộc đời trôi nổi cập kênh vô định nhưng mà hình tượng cành củi ngoài những điều ấy còn gợi được sự khô héo, thiếu nhựa sống.

Cách xếp đặt ngược với thứ tự ngữ pháp thông thường đã ngày càng tăng sức biểu đạt, sức gợi của hình ảnh. Số mệnh con người bé nhỏ nay lại thiếu nhựa sống như 1 cành củi khô trôi nổi giữa dòng đời vô định ko bến bờ. Cuộc đời vô bờ nhưng mà kiếp người lại ngắn ngủi hữu hạn, chớp mắt đã tới bên kia cái dốc của cuộc đời.

Với tấm lòng sầu tư ngắm nhìn cảnh đấy, thi sĩ cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra từng đợt điệp điệp, dòng sông gợi những xao xuyến trong lòng người. Nghệ thuật ẩn dụ đã khiến sóng sông hòa với sóng lòng, những đợt sóng trên sông miên man, bất tận như hữu hình hóa những gợn buồn trong người, nhẹ nhõm nhưng mênh mông ko dứt.

Ta nhìn thấy thi sĩ thường ẩn đằng sau cái mênh mang sóng nước, ko như các thi sĩ Mới thường trình bày cái tôi của mình. Nhưng các thi nhân xưa tìm tới tự nhiên để mong có thể hòa nhập, giao cảm, Huy Cận tìm về với tự nhiên để trình bày nỗi suy tư về biết kiếp người.

Từ ko gian bao la rộng lớn của sóng nước, tầm nhìn mở đầu thu hẹp dần thành quang cảnh bờ bến. Nhưng vẫn nằm trong nỗi buồn sầu vắng triền miên.

“Lơ phơ cồn bé gió quạnh quẽ
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chon von
Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Ở câu thơ đầu giải pháp đảo ngữ liên kết với việc sử dụng từ láy lưa thưa càng ngày càng tăng sự ít oi độc thân của cảnh vật. Văn pháp chấm phá đã diễn đạt thành công ko gian bao la gợi lên nỗi buồn man mác thấm đẫm vào lòng người. Dòng thơ phần đông là thanh bằng gợi 1 nhịp độ nhẹ nhõm khiến ta có cảm nghĩ tượng như 1 tiếng thở dài của đất trời.

Ở câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” vang lên như 1 thanh âm trong trẻo vang lên nhưng mà ko phá tan đi sự độc thân lạnh lẽo của bản nhạc buồn nhưng càng khắc họa thêm nỗi sầu nhân thế đấy. “Đâu” là đại từ phiếm chỉ làm cho âm thanh tư xa văng vẳng lại như thực lại như ảo.

“Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

(Thu điếu – Nguyễn Khuyến)

“Làng xa” đã xác định ko gian nguồn của âm thanh. Còn “Vãn chợ chiều” xác định thời kì. Âm thanh từ xa văng vẳng lại chẳng phải là tiếng cười nói xôn xao nhưng là âm thanh còn sót lại của 1 phiên chợ chiều đã tan người.

“Nắng xuống trời lên sâu chon von
Sông dài trời rộng bến cô liêu”

“Nắng xuống trời lên” sự đi lại ngược hướng của 2 nhân vật vốn gắn bó hình như cùng còn đó trong 1 khoảng ko làm cho ko gian được kéo giãn hết mức để tương ứng với sông dài trời rộng. Còn “sâu chon von” là 1 liên kết từ lạ mắt thông minh của Huy Cận diễn đạt được độ cao hình như tới bất tận, tác giả cảm nhận bầu trời hình như được phản chiếu qua dòng sông.

Mặt khác, sâu chon von tương ứng với nắng xuống trời lên. Vì nắng xuống nên sâu vì trời lên nên chon von. HÌnh ảnh “bến cô liêu” gợi sự quạnh quẽ vắng tanh. Trước ko gian đấy tâm cảnh con người hình như cũng phát triển thành rộng mở, nỗi buồn hình như lan tỏa tràn trề cả trời đất. Không chỉ là vòm trời phản chiếu vào lòng sông nhưng còn gợi lên nỗi buồn độc thân ko đáy của hồn người trước cái vũ trụ hết sức.

Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang, ta thấy con người càng bé nhỏ độc thân, chơ vơ giữa vũ trụ rộng lớn. Hai câu thơ của Huy Cận mới đọc qua tưởng chừng chúng ko có quan hệ gì với nhau bởi ko gian địa lí và vẻ ngoài câu thơ. Nhưng thực ra chúng đều cộng hưởng với nhau để làm nổi trội lên cái độc thân, giá lạnh, lụi tàn của những kiếp người.

Bài thơ mang 1 nỗi buồn thấm đẫm vào cả ko gian thời kì. Bức tranh tự nhiên trong Tràng giang vừa có sự đi lại, vừa hữu hình vừa vô hình, thời kì, ko dâm phụ họa, hài hòa với nhau làm cho cảnh vật càng khi càng ảm đạm, xa rời, cảm xúc càng nặng nề. Nỗi buồn của cảnh vật làm cho lòng người càng thêm lẻ loi hay chính nỗi buồn của lòng người làm cho ko gian cũng nhuốm màu ảm đạm.

Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang nói riêng hay toàn tác phẩm khái quát, ta thấy ấy là nỗi sầu của người dân thực dân địa bị mất chủ quyền. Nỗi buồn đấy hòa vào cảnh vật vô bờ hoang vắng hình thành 1 nỗi buồn mênh mông thấm thía. Từ ấy, ta thấy được tấm lòng thiết tha với cảnh vật tự nhiên và tình yêu non sông thầm kín của tác giả.

Bài thơ mở ra bằng 1 quang cảnh tự nhiên hùng vĩ nhưng mà lẻ loi và khép lại bằng 1 bức tranh đầy tâm cảnh. Trong quang cảnh tự nhiên rợn ngợp đấy, con người thật bé nhỏ, chỉ như 1 cánh chim độc thân giữa bầu trời bao la, như 1 hạt cát giữa sa mạc mênh mang. Đứng trước quang cảnh đấy con người chẳng thể ko cảm thấy độc thân cần kiếm tìm 1 điểm tựa. Không gian vừa thấm đẫm phong vị thơ Đường vừa mang những nét riêng của Huy Cận. Điều ấy đã hình thành vẻ đẹp cho bài thơ.

Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang - mẫu 10

Huy Cận là 1 trong những tác giả điển hình trong phong trào thơ mới. Thơ Huy Cận vừa có chất cổ đại vừa giàu chất suy tưởng của triết lý. “Tràng giang” trình bày nỗi sầu của cái tôi trước” tự nhiên mênh mang, đìu hiu trong ấy thấm đượm tấm lòng đối vs quê hương non sông của nhà thơ.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi 1 cành khô lạc mấy dòng”

Khổ thơ trên là khổ thứ nhất trong bài “Tràng giang”. Nghệ thuật đối có nhiều đổi mới, làm cho 1 mặt nó vẫn phát huy được điểm tốt của loại thơ cổ, tạo được vẻ đẹp tương hợp, ko khí long trọng, mặt khác, nó khiến cho giọng điệu của bài thơ uyển chuyển, cởi mở, tránh được sự khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy đối với 1 số bài thơ Đường luật hồi đầu thế kỉ. Hình ảnh bèo dạt trôi trên sông nối liền ý nghĩa của cành củi khổ trong khổ thơ đầu, ấy là sự dạt trôi không biết về đâu của những kiếp người bé nhoi, lạc loài trong chính cuộc đời mình. Từ “ko” hiện ra 2 lần để khẳng định sự tuyệt vọng từng khao khát gắn tìm chút kết hợp của 1 con người: không 1 con đò dọc ngang trên sông, không 1 cây cầu nối tiếp 2 bến bờ. Tất cả chỉ làm ngày càng tăng cái mênh mang lặng thầm của công tác và cả sự trống vắng lặng thầm của cảnh vật. Đặt trong toàn thể bài thơ, khổ 1,2,3 với sự hiện ra tuần tự của hệ thống hình ảnh nhưng mà không khiến cho không gian thêm ấm áp nhưng chỉ làm nổi trội 1 nỗi sầu buồn lẻ loi đìu hiu của hồn người và cảnh vật.

Vào những 5 30 của thế kỷ trước, đây là những câu thơ mới mẻ, bởi trong ấy xuất hiện ảnh ảnh giản dị, “phổ biến” là “củi 1 cành khô”. Thơ xưa thường nhắc đến những hình ảnh sang trọng nhưng giới “văn nhân, mặc khách” thường ưa chuộng như nguyệt hoa, tuyết nguyệt… Tới thời gian Thơ mới, những hình ảnh “bình dân” như “củi 1 cành khô”, “con nai vàng ngờ ngạc”, con hổ “gặm 1 mối căm hận trong cũi sắt” v.v… mới ồ ạt hiện ra, như là chỉ dấu về 1 “cuộc cách mệnh trong thơ” (Hoài Thanh). Họ đang ko biết đi đâu về đâu, giống như cành củi khô giữa ngã 3 dòng nước.

Khổ thơ thứ 2, cũng là khổ thơ của bài thơ, hài hoà về nét cổ đại và đương đại, được bình chọn là rực rỡ nhất trong kết cấu của bài thơ

“Lơ phơ cồn bé gió quạnh quẽ,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chon von;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Cộng với những hình ảnh vừa quyền quý vừa bình dân”, vừa rất truyền thống cơ mà cũng vừa rất Tây đấy, ta bắt gặp thêm âm thanh của buổi chợ chiều đã vãn từ xa đưa đến:

“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

Đoàn Văn Cừ đã đặc tả thành công cái vẻ đẹp Việt Nam đặc trưng trong bài Chợ Tết lừng danh:

“Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ”.

Các từ “cao”, “sâu”, “rộng”, “dài” được sử dụng như 1 hệ thống để diễn đạt ko gian bao la rộng lớn. Đặc trưng, cách dùng từ đảo nghĩa và đối nghĩa giữa “lên” và “xuống”, giữa “cao” và “sâu” khiến người đọc có cảm giác bị choáng ngợp.

Đây là 1 hình ảnh đẹp, chứa đựng biết bao yêu quý of thi sĩ đối với tự nhiên xứ sở. Giữa tầng phân khúc lớp mây núi chồng chất đấy, nổi trội hình ảnh 1 cánh chim bé đang sa xuống. Đôi cánh nhấp nhánh hoàng hôn khiến nó trông như 1 giọt nắng từ trên trời rơi xuống. Nhà thơ có cảm giác cả không gian vũ trụ đang đè nặng lên đôi cánh bé nhỏ đấy làm cho chim phải chao nghiêng đi. 2 câu thơ cuối được lấy từ 2 cấu kết của Hoàng Hạc Lâu nhưng mà người xưa phải nhờ có khói trắng trên sông mới thấy nhớ nhà. Còn Huy Cận chẳng cần có chút “yên 3” nào cũng thấy nhớ nhà da diết. Nỗi sầu đương đại phệ hơn so với cổ nhân. Câu thơ gợi tả hình ảnh sóng gió tràng giang hình như chỉ còn khấp khểnh 1 chỗ.

Hai khổ thơ trên sử dụng thể thơ thất ngôn rất cân đối, hiệu quả cộng với sự liên kết của các từ láy, giải pháp tu từ, thủ pháp nghệ thuật tương phản đã làm nổi trội lên nỗi sầu của cái tôi độc thân trước tự nhiên, trong ấy thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín nhưng tha thiết. Tràng giang là bài thơ điển hình cho phong trào thơ mới, ko chỉ mô tả khung cảnh quê hương non sông nhưng còn trình bày 1 tình yêu nước sâu nặng cùng nỗi buồn độc thân, chơ vơ của con người ngay trên chính quê hương mình.

Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang - mẫu 11

Huy Cận tưởng như đã đem hồn thơ với nỗi buồn thiên cổ đầy sầu mộng của mình để lượm lặt những nỗi buồn nhân thế mà đem vào trang thơ. Tràng Giang có thể nói là bài thơ thể hiện rõ nhất điệu hồn ấy của phong cách thơ Huy Cận. Đặc biệt hai khổ đầu bài thơ, là những nét vẽ vừa đẹp vừa thấm đẫm chút buồn man mác phủ lên toàn bộ cảnh vật.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Nỗi ám ảnh thời gian luôn vận động theo quy luật tuyến tính, một đi không trở lại đã khiến Xuân Diệu luôn vội vàng, cuống quýt trong từng nhịp điệu sống. Còn nỗi ám ảnh không gian đã mang vào trong thơ Huy Cận những thế giới rộng lớn, mênh mông sầu mộng của thi sĩ. Ở Tràng Giang cũng không phải là ngoại lệ, mở đầu bài thơ là hình ảnh sông dài với những đợt sóng buồn điệp điệp nối đuôi nhau.

Cái hay ở đây, là cách nhà thơ dùng từ “tràng giang” để gọi nó, nó gợi màu sắc cổ điển, vì thế con sông trong thơ Huy Cận dường như gọi về bao nhiêu nỗi niềm xưa, bao nhiêu dấu rêu phong, bao nhiêu những con sông hoàng hà cổ đại, từ đó chảy trên dòng thời gian bất tận để đưa người đọc xuôi dòng về hiện thực. Thuyền và nước, nỗi niềm của sự chia rẽ được thể hiện rất rõ trong nỗi sầu ở câu thơ thứ ba.

Nỗi sầu của dòng sông, nỗi buồn man mác của dòng chảy bất tận về muôn ngã rẽ, mang theo nỗi lòng của mình để hướng về muôn nơi, sự chia cắt của thuyền và nước, tưởng như là sự chia cắt của lòng người khiến cho sự vật cũng như tan tác, chia li. Câu thơ thứ tư, mới thực là sự đắc địa và cẩn trọng trong cách chọn từ của Huy Cận. Củi, đã là sự vật gợi sự khô héo, tàn lụi, thậm chí là mất dần sự sống.

Tiếp đến, lượng từ “một’ gợi sự đơn lẻ đơn độc và lạnh lẽo trên dòng sông bất tật, thế nhưng không chỉ một mình, đơn độc mà cành củi ấy còn vô phương vô định lưu lạc về chân trời nào.

Ở đây có thể thấy, Huy Cận đã đưa vào trong thơ những chất liệu từ đời thực, những chất liệu sống để diễn tả một cách chân thực, mộc mạc nhất sự cô đơn, mất phương hướng thậm chí là bế tắc của chính tác giả, hay của những cái tôi thơ Mới lúc bấy giờ. Nếu trong Tràng Giang, Huy Cận mượn cành củi khô để diễn tả tình cảnh lưu lạc, hoang hoải trong tâm hồn của những cái tôi thơ mới, thì Xuân Diệu cũng từng viết:

Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối”.

Rõ ràng, Huy Cận đã đưa vào thơ một cách trần trụi rất riêng những chất liệu của đời sống.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Thiên nhiên một lần nữa xuất hiện trong thơ nhưng chỉ là những cảnh vật gợi sự khô héo, đìu hiu tàn lụi. Những cồn nhỏ như đang nương vào cơn gió để khe khẽ kể về nỗi buồn của mình. Và ngọn gió, dường như cũng mang trong nó nỗi buồn man mác của cảnh vật mà hồn thơ âu sầu ảo não của Huy Cận đã họa thành. Tiếp đến, chợ vốn là là hình ảnh của không gian sống, là biểu tượng của cuộc sống nhộn nhịp, đông đúc. Nhưng chợ ở đây, cũng là chợ chiều đã vãn.

Cảnh vật héo buồn, sinh hoạt và cuộc sống của con người cũng đi dần vào thế nghỉ ngơi, vào sự buồn bã hiu quạnh. Hai câu thơ cuối có thể nói là tuyệt bút nên thơ của Huy Cận, cách dùng từ độc đáo của thi nhân đã lột tả một cách chính xác cảm giác của nhân vật trữ tình khi đứng trước thiên nhiên rộng lớn.

Những chuyển động đối lập nhau: lên-xuống cùng với cách tạo vế đối nắng xuống, trời lên tạo cảm giác như một chiếc tù giam lỏng dồn nén con người ở giữa cảm thấy ngột ngạt, bí bách và chán chường trong sự vận động xoay guồng của tạo hóa. Sâu chót vót là cụm từ độc đáo, vừa diễn tả độ sâu, vừa diễn tả độ cao, vừa tạo cảm giác mở về sự cảm nhận của người đọc. Và rồi tiếp nối mạch cảm xúc ấy, là cảm giác cô liêu, cô đơn đến cùng cực của con người giữa sông dài trời rộng, giữa sự vô tận.

Chỉ với 8 câu thơ, Huy Cận đã yểm vào đó linh hồn cho từng câu chữ, để bắt cảnh vật sống dậy với chất buồn thấm đẫm trong từng thớ vỏ, đồng thời tạo nên cảm giác âu sầu ảo não vốn rất đặc trưng trong thế giới thơ Huy Cận.

Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang - mẫu 12

Cù Huy Cận (1919-2005), bút danh Huy Cận là một trong những đại biểu xuất sắc nhất của phong trào thơ Mới, đồng thời cũng là một nhà thơ có nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam xuyên suốt qua từng giai đoạn lịch sử của dân tộc. Trước cách mạng tháng 8, thơ Huy Cận thường mang một nỗi sầu bi da diết, vô tận, bao trùm trong trời đất mà người ta vẫn nói đùa rằng lúc mang thai ông hẳn mẹ ông đã phải rơi lệ nhiều nên con trai bà mới có một tâm hồn sầu não, ảm đạm như thế.

Tràng Giang là một trong những bài thơ nổi bật nhất trong phong trào thơ Mới, đồng thời cũng là sáng tác tiêu biểu và xuất sắc nhất đại diện cho phong cách sáng tác của Huy Cận giai đoạn này. Bài thơ nhuốm màu cổ điển của thơ Đường đồng thời cũng mang những nét hiện đại, lãng mạn của thơ Pháp thể hiện sâu kín nỗi buồn, nỗi cô đơn, lạc lõng của con người trước thế sự khi bản thân tác giả đang bế tắc trước viễn cảnh đất nước đau thương.

Nhan đề “Tràng giang”, là một nhan đề hay khi gợi mở ra không gian rộng lớn bằng cách điệp vần “ang”, tạo cảm giác kéo dài, âm thanh vang vọng, thoát xa trong trời đất, đồng thời nhan đề hán việt này cũng mang đến cho tác phẩm sắc thái cổ kính, trầm lặng, chất chứa nhiều tâm tư, nỗi buồn sâu kín.

Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, gợi ra cảm xúc chủ đạo trong bài thơ là nỗi bâng khuâng, buồn bã, chất chứa nhiều tâm sự của con người khi đứng trước một vùng trời sông nước quá đỗi rộng lớn, mà con người lại chỉ như hạt cát nhỏ, lạc lõng, chơ vơ, không biết phải đi đâu về đâu, không biết bản thân tồn tại, trong trời đất này có nghĩa lý gì.

Điều đó khiến ta liên tưởng đến hoàn cảnh đầy đau thương của đất nước lúc bấy giờ, Huy Cận bản thân là một trí thức tiểu tư sản, nhưng trước thế sự rối ren lại trở nên bế tắc, không thể tìm thấy con đường sáng, và khi đứng trước sông nước mênh mông, ông lại càng cảm thấy cô đơn, lạc lõng.

Điều đó thực đúng với câu “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, khi mà cổ nhân tìm về với thiên nhiên để tìm sự đồng điệu, giao cảm, thì Huy Cận lại lấy thiên nhiên mà bộc lộ những nỗi niềm sâu kín, đem đến cho người đọc những rung cảm mới mẻ, hấp dẫn.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Ở khổ thơ đầu tiên ta thấy mở ra là hình ảnh một bức tranh sông nước buồn vắng và ảm đạm, vẻ đẹp cổ điển của bài thơ cũng được thể hiện một cách rõ nét. Hình ảnh “tràng giang” tức là một con sông vừa rộng lại vừa dài, tưởng chừng như kéo dài đến vô tận, thế nhưng lòng sông lại hết sức yên tĩnh, dòng sông lớn thế mà sóng chỉ gợn nhẹ, mang đến cảm giác phẳng lặng, hiu hắt tựa như cảnh “dòng nước buồn thiu” của Hàn Mặc Tử.

Không chỉ vậy cái buồn còn được bộc lộ một cách trực tiếp và rõ ràng trong mấy từ “buồn điệp điệp”, tức là cái buồn nỗi buồn, chồng chất lên nhau lẫn vào từng gợn sóng lăn tăn của dòng sông một cách ẩn nhẫn, âm thầm, trông có vẻ mờ nhạt nhưng thực tế lại sâu sắc vô cùng.

Hình ảnh “Con thuyền xuôi mái nước song song/Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, đó là một cảnh tượng gợi ra nhiều nỗi cô đơn, thuyền qua thuyền lại biết bao lần, nhưng chưa chắc một lần thuyền hiểu được nỗi lòng sông, nỗi lòng con nước. Vốn dĩ thuyền – nước hô ứng, phối hợp với nhau ấy nhưng khi vào thơ Huy Cận dường như chúng lại chẳng giao hòa, cứ song song với nhau, rồi “thuyền về nước lại” càng gợi sự chia lìa, xa cách, nghe não lòng, đau xót.

Thêm nữa từng con thuyền ấy lại vướng biết bao nỗi sầu, và dường như nó còn chuyên chở cả nỗi sầu mênh mông của người, của cảnh đi khắp trăm ngả, không dừng đợi.

Câu cuối đoạn “Củi một cành khô lạc mấy dòng”, chính là tâm sự, là nỗi niềm, là thân phận của tác giả. Giữa mênh mông sóng nước như thế, lại chỉ có một nhánh củi khô nhẹ bẫng, trơ trọi, đơn độc lênh đênh không biết trôi dạt về đâu. Cũng như chính Huy Cận hoang mang, lạc lõng trước thời cuộc, không có tiếng nói, sức ảnh hưởng, không biết rồi mai đây số phận đẩy đưa, thời thế đất nước sẽ ra sao, bất lực và bế tắc vô cùng.

Bên cạnh vẻ đẹp hiện đại khi tác giả khéo léo bộc lộ cái tôi, nỗi buồn cá nhân trước thế sự, thì vẻ đẹp cổ điển còn được in đậm bằng các từ láy “điệp điệp”, “song song”, những từ hán việt “sầu”, “tràng giang” mang đến cho bức tranh thiên nhiên sông nước vẻ đẹp cổ kính, đượm buồn.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Sang đến khổ thơ thứ hai cảnh sông nước mênh mông đã được thay thế bằng một khung cảnh khác, không gian được thu hẹp hơn, thế nhưng dường như nỗi buồn lại càng trở nên đậm đặc hơn, bao trùm kín kẽ từng cảnh vật.

Huy Cận tiếp tục sử dụng bút pháp quen thuộc trong Đường thi khi sử dụng các từ láy vần liên tiếp “lơ thơ”, “đìu hiu”, “chót vót”, diễn tả trọn vẹn được sự cô quạnh, hoang vắng của cảnh vật. Ở câu “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”, rõ ràng những cồn cát đã nhỏ, ấy thế mà còn rời rạc, thưa thớt, dường như chẳng hề có chút kết nối, thêm tiếng gió buổi chiều hôm mỏng nhẹ thổi lướt qua càng khiến khung cảnh thêm tịch mịch, buồn bã.

Giữa cảnh tượng cô liêu, rợn ngợp ấy, Huy Cận đã không kiềm được phải thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, để mong tìm được một chút âm thanh sự sống, âm thanh của con người, dù là nhỏ nhất chỉ để xua tan bớt đi cái nỗi cô đơn, trống vắng đang bủa vây.

Đổi một cách nhìn khác, cái tiếng chợ chiều làng xa ấy, lại càng làm nổi bật nên sự đìu hiu, quạnh quẽ của không gian sông nước, khi mà một tiếng vãn chợ xa xăm cũng trở nên rõ ràng lọt vào tai của người lữ khách bên sông. Điều đó cũng đủ thấy rằng cảnh thiên nhiên và cảnh lòng người đang ở mức cô tịch, vắng vẻ đến độ nào.

Đến câu “Nắng xuống trời lên sâu chót vót”, ta dễ dàng mường tượng ra khoảng cách xa xăm giữa trời và đất, câu thơ dường như càng kéo giãn thêm cái độ rộng dài của không gian. Mấy từ “sâu chót vót” vốn chẳng hợp lý khi đưa vào để miêu tả độ cao của trời xanh, thế nhưng trong Tràng giang thì chỉ có mấy từ ấy mới diễn tả được sâu sắc khoảng cách đất trời, làm nổi bật lên sự nhỏ bé của con người trước vũ trụ rộng lớn bao la.

Và để khi rời ra tiếng chợ chiều, Huy Cận nhìn lại một lần nữa chỉ còn cảnh “Sông dài trời rộng, bến cô liêu”, cảnh sông nước mênh mông, rộng lớn, bến cô liêu chẳng một bóng người lạnh lẽo, hoang sơ và ảm đạm như chính lòng tác giả.

Hồn thơ Huy Cận là một hồn thơ hay và chịu thích nghi với thời cuộc, trước cách mạng tháng tám với tư cách là một trí thức tiểu tư sản, trong các sáng tác của mình, ông thường bộc lộ những nỗi buồn thế sự, nỗi bất lực trước cảnh đổi thay của thời đại, cũng như cảnh đau thương của đất nước, thể hiện tấm lòng yêu đất nước sâu nặng.

Tất cả những tình cảm ấy được thể hiện rõ nét trong 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang bằng lối thơ vừa cổ điển vừa hiện đại, kết hợp cùng nỗi ám ảnh sâu sắc với không gian rộng lớn, Huy Cận đã tạo ra một tác phẩm xuất sắc, để lại nhiều dấu ấn trong lòng người đọc về thơ ca Việt Nam giai đoạn trước cách mạng.

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH LUYỆN THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 11

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi, sách dành cho giáo viên và gia sư dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


trang-giang.jsp



Giải bài tập lớp 11 sách mới các môn học